Hen suyễn là bệnh lý ở cơ quan hô hấp, với biểu hiện đặc trưng là khó thở và tiếng đờm khò khè trong họng.
Theo lương y Phạm Như Tá (TP.HCM): y học cổ truyền quan niệm hen suyễn xảy ra là do 4 nguyên nhân: do ngoại tà xâm nhập – thường gặp loại phong hàn và phong nhiệt. Phong hàn phạm vào phế khiến phế khí bị ủng tắc thăng giáng thất thường, nghịch lên thành suyễn. Còn phong nhiệt từ đường hô hấp vào phế, hoặc phong hàn bị uất lại hóa thành nhiệt không tiết ra được gây ngưng trệ ở phế thành háo suyễn. Thứ hai là do phế thận hư yếu – do ho lâu ngày hoặc bệnh lâu ngày làm phế bị suy, phế khí và đường hô hấp bị trở ngại gây nên suyễn, hoặc do thận hư yếu không nhuận được phế, không nạp được khí gây nên suyễn. Bệnh suyễn chủ yếu ở phế, và có quan hệ với thận, hoặc có quan hệ cả với tim (nếu bệnh nặng).
Thứ ba là do tỳ phế hư yếu – tỳ hư sinh đàm thấp thịnh ứ đọng tại phế gây tắc phế lạc, khí đạo không thông làm cho khó thở. Hoặc bệnh lâu ngày phế hư không chủ khí sinh khí nghịch khó thở. Thận chủ nạp khí, do bẩm sinh hoặc bệnh lâu ngày ảnh hưởng đến thận, thận không nạp được khí cũng sinh khó thở. Thứ tư là do đờm trọc nội thịnh – do ăn uống không điều độ ảnh hưởng đến công năng vận hóa của tỳ, tích trệ lại thấp đờm. Trong thức ăn có những chất làm tổn thương tỳ vị, tỳ vận hóa kém, thủy cốc dễ sinh thấp đàm ứ đọng tại phế gây tắc phế lạc, phế khí bị trở ngại gây nên hen.
Phép trị theo cổ truyền
Việc chữa trị của cổ truyền dựa vào thời điểm, thể bệnh. Với thời điểm bệnh lên cơn suyễn, nếu là thể phong hàn, thì dùng bài “Tam cao thang gia vị”, gồm: 4g cam thảo, 7g hạnh nhân, 12g ma hoàng. Tất cả đem sắc (nấu) uống. Hoặc dùng bài “Tô tử giáng khí thang”, gồm: tô tử, bán hạ (36g), tiền hồ, hậu phác, đương quy, cam thảo (đều 4g), quất bì 12g, quế tâm 16g, sinh khương 50g, 5 trái táo, đem sắc chia làm 5 lần uống, sáng 3 lần, tối 2 lần. Và còn một số bài khác nữa.
Nếu suyễn do phong nhiệt, thì dùng một trong những bài như:“Định suyễn thang”, gồm: ma hoàng, bán hạ (từ 6-12g), hạnh nhân, tô tử (6-8g), tang bạch bì, khoản đông hoa (đều 12g), hoàng cầm (8-12g), bạch quả (10-20 quả), cam thảo 4g, đem sắc uống. Hoặc dùng bài “Chỉ háo định suyễn thang”, gồm: ma hoàng, tử uyển, bối mẫu, hạnh nhân (đều 10g), sa sâm 12g, huyền sâm 16g, đem sắc (nấu) uống. Nếu là thể phong đờm, thì có thể dùng bài “Nhị trần thang hợp tam tử thang gia giảm”, gồm: nhị trần thang (gồm các vị: bán hạ, quất hồng, phục linh, cam thảo), cộng với tam tử thang (tử tô tử, bạch giới tử, la bặc tử). Hoặc dùng bài “Tiền hồ thang gia vị”, gồm: tiền hồ, tang diệp, tỳ bà diệp, tri mẫu (đều 16g), kim ngân hoa 20g, hạnh nhân, mạch môn, hoàng cầm, khoản đông hoa, cát cánh (đều 12g), cam thảo 8g, đem sắc (nấu) uống.
Ở thời điểm bệnh ổn định không lên cơn: Nếu là thể phế hư, thì có thể dùng bài “Sinh mạch tán gia vị”, gồm: mạch môn 12g, ngũ vị tử 7 hạt, nhân sâm 12g, thêm ngọc trúc, bối mẫu (đều 8g), đem sắc (nấu) uống. Cách sắc (nấu) các bài thuốc trên là: nước thứ nhất cho các vị thuốc cùng 4 chén nước, nấu còn lại 1 chén, cho nước thuốc ra; nước thứ hai cho 3 chén nấu còn lại nửa chén. Hòa hai nước thuốc lại chia làm 3 lần dùng trong ngày (cho người lớn), dùng lúc nước thuốc còn ấm. Trẻ em dùng một nửa liều của người lớn.
Theo K.V – Bacsi.com