Đại bi còn có tên khác là từ bi xanh, đại ngải, bơ nạt, phặc phả (Tày), co nát (Thái). Là loại cây nhỏ, cao khoảng 1-3m, thân phân cành ở phía ngọn, nhiều lông. Lá mọc so le, phiến lá có lông, mép có răng cưa hay nguyên. Cụm hoa hình ngù ở nách lá hay ở ngọn, gồm nhiều đầu, trong mỗi đầu có nhiều hoa màu vàng. Quả bế có lông. Toàn cây có lông mềm và tinh dầu thơm.
Cây mọc hoang khắp nơi, nhiều nhất ở trung du và miền núi. Thu hái toàn cây vào mùa hạ và mùa thu, dùng tươi, hoặc phơi hay sấy khô.
Cây đại bi có vị cay và đắng, mùi thơm nóng, tính ấm; có tác dụng khu phong, tiêu thũng, hoạt huyết, tán ứ. Có công dụng trị thấp khớp, đòn ngã tổn thương, sản hậu đau lưng; đau bụng sau khi sinh, đau bụng kinh; cảm mạo,… Dùng ngoài chữa chấn thương, mụn nhọt, ghẻ ngứa, lấy lá giã đắp hoặc nấu nước tắm. Có thể làm thuốc ngâm rượu để xoa bóp chỗ đau.
Đại bi được dùng chữa một số bệnh sau:
– Chữa đầy bụng, khó tiêu: Lá đại bi 30g tươi sắc uống ngày 1 lần. Uống 3 ngày.
– Hỗ trợ điều trị thấp khớp: Đại bi (thân, rễ) khô 20g, ké đầu ngựa 10g, bạch chỉ 20g, thiên niên kiện 20g. Sắc uống ngày 1 thang. Dùng 10 -15 ngày.
– Ðau bụng kinh: Rễ đại bi 30g, ích mẫu 15g, sắc uống. Uống 3 – 5 ngày.
– Chữa ghẻ nước: Lá đại bi tươi, lá hồng bì dại, mỗi thứ một nắm, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt đặc bôi.
– Chữa ho do cảm mạo: Lá đại bi 200g, lá chanh 50g, rễ cà gai leo 100g, rễ thuỷ xương bồ 100g, củ sả 100g, trần bì 50g, tất cả phơi khô, cắt nhỏ nấu với nước 2 lần để được 700ml nước thuốc, lọc, rồi thêm 300ml xi rô để được 1 lít cao. Ngày uống 40ml, chia làm 2 lần.
– Chữa cảm mạo, ho, sốt nóng: dùng 5 -12g lá đại bi tươi nấu nước uống. Có thể nấu nước xông cho ra mồ hôi, dùng riêng hay phối hợp với các loại lá khác có tinh dầu như lá sả, bưởi, cam, tre… mỗi thứ một nắm cho vào nồi đổ ngập nước đun sôi để xông, xông ở nơi kín gió trước, trong và sau khi xông phải lau khô mồ hôi… có thể xông từ 2 – 3 lần trong 1 tuần khi dứt cảm cúm có sốt nhẹ.
Theo: suckhoedoisong