Công thức Bào Chế Hoàn Bát Vị
Quế chi (Ramullus Cinnamomi) 22 g
Hắc Phụ tử ( Radix Aconiti lateralis praeparata) 22 g
Thục địa (Radix Rehmaniae praeparata) 176 g
Sơn thù (Fructus Corni) 88 g
Mẫu đơn bì (Cortex Moutan) 66 g
Hoài sơn (Radix Dioscoreae persimilis) 88 g
Phục linh (Poria Cocos) 66 g
Trạch tả (Rhizoma Alismatis) 66 g
Mật ong vừa đủ (Mel q.s) 1000 g
Bào Chế Hoàn Bát Vị
Phụ tử chế hắc Phụ tử, Sơn thù : Chế rượu theo chuyên luận riêng.
Quế chi: Thái phiến, tẩm nước Ngưu tất, Ngũ vị tử (100 ml nước sắc dùng 1 g Ngũ vị tử và 3 g Ngưu tất), ủ trong 12 giờ cho ngấm đều, sấy nhẹ cho khô (40 – 50 oC), thái nhỏ. Thục địa thái lát dày 2 – 3 mm, tẩm rượu cho mềm, trộn với các vị thuốc khác, giã nát với nhau, sấy khô nghiền thành bột mịn, trộn đều thành bột kép, rây qua rây số 180. Mật ong cô luyện thành châu. Cứ 100 g bột kép dùng 80 g – 110 g mật luyện nóng, trộn đều đến nhuyễn. Chia thành các hoàn mềm 9 g.
Chế phẩm phải đáp ứng các yêu cầu ghi trong chuyên luận “Thuốc hoàn” (Phụ lục 1.11) và các yêu cầu sau:
Tính chất
Hoàn hình cầu màu nâu hơi đen bóng, vị ngọt hơi chua và cay.
Định tính
A. Hoài sơn, Bạch linh, Quế, Trạch tả: Soi bột chế phẩm dưới kính hiển vi với độ phóng đại thích hợp, so sánh với bột Hoài sơn, Trạch tả, Bạch linh và Quế chi (mẫu chuẩn) thấy: Hạt tinh bột hình chuông, hình trứng, dài 10 – 60 µm, rộng khoảng 20 µm, có vân đồng tâm, rốn lệch tâm, hình chấm hay hình vạch của Hoài sơn. Các hạt tinh bột hình trứng dài, hình bầu dục, đường kính 3 – 14 µm, rốn hình khe ngắn, hình chữ Y, chữ V, đứng riêng lẻ hay kép đôi, kép 3 của Trạch tả. Các khối phân nhánh không đều, không màu, hòa tan trong dung dịch cloral hydrat (TT), sợi nấm không màu, hơi cong và phân nhánh của Bạch linh. Các sợi dài đặc biệt hình thoi, màu vàng nâu, thành dày khoang hẹp, tế bào mô cứng hình chữ nhật hay hình trái xoan thành dày, khoang rộng có ống trao đổi rõ của Quế
B. Định tính Thục địa
Phương pháp sắc ký lớp mỏng (Phụ lục 5.4).
Bản mỏng: Silica gel G đã hoạt hoá ở 110 oC trong 1 giờ.
Dung môi khai triển: Cloroform – ethylacetat ( 9 : 1).
Dung dịch thử: Lấy 15 g chế phẩm, tán thành bột thô, thêm 40 ml methanol (TT), đun sôi trên cách thủy 15 phút, gạn và lọc lấy dịch chiết. Bã được chiết như trên 2 lần nữa. Gộp các dịch chiết methanol, cô trên cách thuỷ tới cạn. Khuấy kỹ cắn với n-buthanol (TT) 3 lần, mỗi lần 5 ml. Gộp các dịch chiết buthanol, bốc hơi trên cách thuỷ tới cạn. Hoà cắn trong 1 ml ethanol (TT).
Dung dịch đối chiếu: Lấy 1,5 g Thục địa (mẫu chuẩn), tiến hành chiết như dung dịch thử.
Cách tiến hành: Chấm riêng biệt lên bản mỏng 20 ml mỗi dung dịch thử và dung dịch đối chiếu. Triển khai sắc ký cho đến khi dung môi đi được khoảng 12 – 13 cm, lấy bản mỏng ra, để khô ở nhiệt độ phòng, phun dung dịch vanilin 1% trong hỗn hợp đồng thể tích acid phosphoric và ethanol (TT), sấy bản mỏng ở 110 oC đến khi hiện rõ các vết. Trên sắc ký đồ của dung dịch thử phải cho vết có cùng màu và giá trị Rf với các vết trên sắc ký đồ của dung dịch đối chiếu.
Độc tính bất thường
Thử theo phụ lục 13.5. Lấy 3 g bột viên, thêm 7,5 ml nước cất nghiền nhuyễn và lắc đều. Cho chuột uống 1 ml/chuột.
Bảo quản
Trong bao bì kín, để nơi khô mát.
Công năng, chủ trị
Ôn bổ thận dương. Chủ trị: Thận dương bất túc, thắt lưng đau gối mỏi, nửa người dưới thường có cảm giác lạnh, bụng dưới đau co lại, tiểu tiện hoặc ít hoặc nhiều. Có thể dùng cho đờm ẩm, cước khí, tiêu khát, chuột rút.
Cách dùng, liều lượng
Mỗi lần 1 hoàn, ngày 2 lần, uống lúc đói.