Triệu chứng và cách xử trí ngạt nước

1. ĐẠI CƯƠNG
Hàng năm nhất là về mùa hè có nhiều người bị chết đuối không cứu được hoặc cứu không đúng cách.
Hoàn cảnh xảy ra chết đuối có thể gặp trong 4 trường hợp sau:
– Do ngạt nước: đó là trường hợp những người không biết bơi ngã xuống nước.
– Do ngất đột ngột khi tiếp xúc với nước.
– Lặn quá sâu dưới nước rồi ngất.
– Do bơi quá mệt, có thể gọi là đuối nước rồi ngất đi.

ngatnuoc1-dfda0
2. CƠ CHẾ BỆNH SINH
2.1. Thực nghiệm
– Trên chó chết đuối qua 4 giai đoạn:
+ Đóng thiệt hầu một cách đột ngột.
+ Hít phải nước.
+ Ngừng thở
+ Ngừng tim
2.2. Tình trạng nước giật hay sốc nước
– Là một rối loạn huyết động đột ngột do sự chênh lệch giữa nhiệt độ da và nước.
– Người bơi đang có tình trạng giãn mạch do phơi nắng, đang tiêu hóa (sau bữa ăn) đang vận động nhiều.
– Khi xuống nước, người đó đột nhiên bị co mạnh dữ dội làm tuần hoàn trở về tăng mạnh, gây ra ngất và bệnh nhân chìm luôn. Đó là ngất trắng một tai biến do không thích ứng.
Ngất trắng giống tình trạng sốc nặng không gây ngừng tim ngay. Nếu may mắn bệnh nhân lúc này được vớt ngay và được cấp cứu ngay thì dễ khả năng hồi phục vì phổi chưa bị sặc nước. Lartigue cho rằng trong ngất trắng còn có vai trò của sốc thanh quản. Sốc này gây ra một tình trạng ngất vì phản xạ Sinlera do tiếp xúc đột ngột với nước và dây thần kinh X. Giải phẫu bệnh cũng cho thấy tim phải giãn, tim trái co cứng.
2.3. Hội chứng sau ngạt nước
– Sau ngạt nước có hai rối loạn chính đe dọa tính mạng nạn nhân.
– Giảm ôxy máu do nhiều yếu tố.
+ Nước vào phế nang gây ra một màng nước ngăn cách sự khuếch tán ôxy qua màng phế nang vào mạch.
+ Co thắt phế quản, co thắt động mạch phổi.
+ Tăng sức cản phổi.
– Phù phổi cấp có các yếu tố tham gia:
+ Yếu tố thẩm thấu: nước mặn hay nước ngọt khi vào phổi đều có thể gây ra PPC.
+ Tăng gánh đột ngột thất phải, tăng gánh ở tuần hoàn máu, tăng thể tích máu trở về.
+ Giảm ôxy tổ chức ảnh hưởng đến thần kinh trung ương và cơ tim. Rối loạn ý thức, rối loạn dẫn truyền, kích thích cơ tim.
+ Niêm mạc phế quản, phế nang bị kích thích do nước bẩn, do nước có nhiều clo.
3. TRIỆU CHỨNG
3.1. Lâm sàng
– Sau ngạt nước: 3-4 phút vùng vẫy nạn nhân hít phải nước vào đường thở sẽ bị ngừng thở, sau đó ngừng tim.
– Nạn nhân xanh tím (ngất xỉu) bọt hồng đầy mũi mồm và trào ra.
– Sốc do ngạt nước: xuất hiện dưới 3 hình thức.
+ Trường hợp nhẹ:
• Cảm giác ớn lạnh, khó chịu
• Cảm giác co thắt bụng và ngực
• Buồn nôn, chóng mặt, nhức đầu, mạch nhanh, nổi mày đay kiểu dị ứng.
+ Bệnh có thể chuyển từ nhẹ sang nặng:
• Truỵ mạch, nổi mày đay, ngất.
+ Ngất đột ngột trong khi bơi
• Ngất trắng kiểu ức chế thần kinh, nạn nhân chìm xuống không giây giụa.
– Hội chứng sau khi ngạt nước:
+ Giảm thân nhiệt.
+ Rối loạn thần kinh do thiếu oxy não, hôn mê, hội chứng bó tháp.
+ Phù phổi cấp.
+ Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển ARDS.
3.2. Xét nghiệm
– Máu: hematocrit tăng, hồng cầu tăng.
– Thay đổi các chất khí và kiềm toan: SaSO2 giảm, PaCO2 tăng, pH máu giảm.
– Rối loạn nước, điện giải: biểu hiện mất nước ngoài tế bào.
– Tan máu (ít gặp)
– Đường huyết tăng.
4. XỬ TRÍ
4.1. Hướng xử trí
– Hai phương châm cơ bản:
+ Sơ cứu tại chỗ, tích cực, đúng phương pháp.
+ Kiên trì cấp cứu trong nhiều giờ.
– Các biện pháp chủ yếu xử trí nhằm:
+ Giải phóng khai thông đường hô hấp.
+ Đem lại ô xy cho nạn nhân.
+ Chống lại những rối loạn ở tim, phổi và chuyển hóa.
4.2. Xử trí cụ thể
Các giai đoạn cấp cứu
– Xử trí tại chỗ:
+ Là quan trọng nhất quyết định tiên lượng.
– Cấp cứu ngạt nước: phải cấp cứu ngay khi còn ở dưới nước.
+ Nắm tóc nạn nhân để nhô đầu lên khỏi mặt nước.
+ Tát 3-4 cái thật mạnh vào má nạn nhân để gây phản ứng hồi tỉnh và nhịp thở trở lại.
+ Quàng tay qua nách rồi lôi lên bờ.
– Khi đã đưa nạn nhân lên bờ:
+ Vấn đề quan trọng vẫn là giải phóng hô hấp đem lại ôxy cho bệnh nhân.
+ Để nạn nhân nằm ưỡn cổ, lấy khăn lau sạch mũi, họng, miệng.
+ Tiến hành hô hấp miệng miệng.
+ Đấm mạnh vào vùng trước tim 5-6 cái.
+ Động tác dốc ngược nạn nhân có tác dụng khai thông vùng bụng và nước trong phổi chảy ra.
+ Cần hô hấp miệng miệng và ép tim ngoài lồng ngực cho đến khi tim đập, hô hấp hoạt động trở lại.
– Khi kíp cấp cứu đã đến.
+ Hô hấp nhân tạo bằng bóng Ambu
+ Đặt canun Guedel hay Mayo và hút đờm dãi, hút nước trong dạ dày.
+ Nếu tình trạng thiếu ôxy đã bớt thì có thể đặt nội khí quản, bóp bóng.
+ Chích máu tại chỗ: có tác dụng gây phản xạ kích thích hô hấp và giải quyết vấn đề huyết động.
Vấn đề chuyển bệnh nhân:
– Vấn đề chuyển đến đơn vị hồi sức có trang bị đầy đủ được đặt ra khi:
+ Nạn nhân đã thở trở lại, giãy giụa, kêu la.
+ Nạn nhân vẫn hôn mê, nhưng đã có mạch và nhịp thở.
– Tại trung tâm cấp cứu: có nhiều tình huống.
+ Nếu bệnh nhân vẫn chưa hồi tỉnh hẳn phải bóp bóng Ambu cho thở ôxy rồi tiến hành đặt nội khí quản hô hấp nhân tạo bằng máy.
+ Chống rung thất, trụy mạch và phù phổi cấp.
+ Điều chỉnh nước điện giải thăng bằng kiềm toan.
+ Cần chú ý đến tình trạng mất nước ngoài tế bào máu cô đặc sau ngạt nước phải
truyền nhiều dịch và dựa vào áp lực tĩnh mạch trung tâm.
+ Chụp phổi theo dõi bội nhiễm.
+ Nếu bệnh nhân không tím, bắt đầu tỉnh: chỉ cần hút đờm dãi, thở ôxy qua mũi theo dõi 48h.
+ Nếu tình trạng suy hô hấp nặng lên, xanh tím phải đặt nội khí quản, hút đờm dãi, thở máy có PEEP.

5. DỰ PHÒNG
– Cần có sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và các đoàn thể trong việc tuyên truyền giáo dục, quản lý trẻ em về vấn đề bơi lội, tắm ao hồ, sông suối…
– Tổ chức các lớp dạy bơi phù hợp cho từng lứa tuổi.
– Tổ chức các lớp tập huấn xử trí ban đầu người ngạt nước.

” Thông tin này chỉ dành cho nhân viên y tế tham khảo, người bệnh không được tự ý áp dụng phương pháp này để chữa bệnh “

Trích : Bệnh học nôi khoa, giáo trình đại học y khoa Thái Nguyên