1. ĐẠI CƯƠNG
1.1. Đặc điểm dịch tễhọc nhức đầu
Thuật ngữnhức đầu hay đau đầu bao hàm tất cảcác loại đau ở đầu, nhưng thông thường ta dùng từnhức đầu chỉ đểnói tới những cảm giác khó chịu vùng vòm sọ.
Nhức đầu là một trong những cảm giác khó chịu thường gặp nhất của con người, là một triệu chứng thường gặp do nhiều nguyên nhân khác nhau, xuất hiện trong rất nhiều bệnh.Nhức đầu có thểlà dấu hiệu đầu tiên, duy nhất trong một thời gian dài của một bệnh thần kinh thực thể.
Nhức đầu cũng hay gặp trong các bệnh nội tạng, bệnh toàn thân hoặc bệnh tai mũi họng, mắt, răng. Nhức đầu được xếp vào 10 lý do hàng đầu khiến bệnh nhân tới thầy thuốc khám bệnh. Các cuộc điều tra cộng đồng cho thấy có 65 – 80% phụnữvà 57 – 75% nam giới bị nhức đầu mỗi tháng. Sốhiện tượng mắc nhức đầu giảm xuống theo tuổi, trong khi
tần sốtới bác sĩkhám bệnh vì nhức đầu lại tăng. Nhức đầu là nguyên nhân làm mất nhiều ngày công lao động.
Phần lớn nhức đầu thường là lành tính, nhưng đôi khi có những vấn đề rất nghiêm trọng có thểcùng có mặt với nhức đầu.
Điều trịnhức đầu không phải chỉlà điều trịtriệu chứng mà căn bản là điều trị nguyên nhân, điều trị bệnh.
1.2. Cơchếnhức đầu
Một tác động vào thành phần có cảm giác của các tổ chức trong sọ đều gây nhức đầu theo nhiều cơ chế.
* Cơchếthần kinh:
– Tác nhân kích thích:
+ Tổn thương tại chỗ: viêm màng não, vết thương sọnão ảnh hưởng tới màng cứng, xâm nhập của khối u.
+ Kích thích cơhọc: đè ép, co kéo màng não và các mạch máu não trong tăng áp lực nội sọ, u não, áp xe não, hoặc rối loạn tuần hoàn máu và dịch não tuỷ.
– Bộphận kích thích:
Màng cứng, thành mạch máu trong sọcó nhiều cơquan nhận cảm, có nhiều tận cùng thần kinh cảm giác.
– Đường dẫn truyền kích thích:
Khi các thụthểbịkích thích, xuất hiện các xung động thần kinh. Các xung động đó được truyền lên não bằng dây V, dây IX, dây X và dây cổI, II, III. Đường dẫn truyền này đi qua hai chặng quan trọng là qua đồi thịvà qua chất lưới.
* Cơchếphản xạ:
Do rễcảm giác của dây V nằm trong vùng cầu – hành não, bên cạnh những đây thực vật. Có lẽvì vậy nhiều bệnh của cơquan nội tạng gây đau đầu
* Cơchếthần kinh thểdich:
Do kích thích các thụthểhóa học ởthành mạch máu, ởmàng não trong nhiễm độc nhiễm khuẩn toàn thân, rối loạn chuyển hóa, rối loạn nội tiết.
* Tăng tính hưng phấn của tếbào vỏnão:
Trong suy nhược thần kinh, vỏnão ởtrạng thái mà ngưỡng chịu kích thích của vỏ não bịhạthấp. Vỏnão tiếp thu cảnhững kích thích nhỏ, thường xuyên từ các cơquan nội tạng truyền tới, do đó bệnh nhân hay cảm thấy nhức đầu.
* Đặc điểm tâm thân:
Có người chịu đau tột, có người chịu đau kém.
2. ĐÁNH GIÁ BỆNH NHÂN VÀ XÁC ĐỊNH CÁC TRIỆU CHỨNG ĐI KÈM
VỚI NHỨC ĐẦU
2.1. Hỏi bệnh
– Khai thác bệnh sử: bệnh sửbệnh nhân là phần quan trọng nhất của việc đánh giá nhức đầu, cần khai thác kỹvềsựkhởi phát, tần số, thời lượng, tính chất, cường độ, vịtrí, các yếu tốtăng giảm, các triệu chứng phối hợp, các biểu hiện
thần kinh, việc dùng thuốc trong quá khứvà hiện nay. Các dị ứng và chấn thương cần được xác định.
– Lịch sửgia đình: nhức đầu Migren cókhuynh hướng di truyền. Nguyên nhân dẫn tới nhức đầu thứphát có thểphát hiện từsựhiểu biết vềtiền sửbệnh trong gia đình nhưtăng huyết áp, nhiễm khuẩn, đái tháo đường, ung thư.
– Các tress xã hội và cá nhân: cần tìm hiểu công việc, giấc ngủ, ăn uống, thời gian hoạt động. Xác định sựtiêu thụrượu, nước uống có cà phê, hút thuốc lá, thuốc lào và tiền sửdùng các thuốc khác.
2.2. Khám thực thể
Mục đích đểxác định và loại trừnhững nguyên nhân thứphát của nhức đầu.
– Khám về đầu, cổ, thần kinh: xác định tăng nhậy cảm đau, sựkhông đều về hình dạng, các tiếng bất thường trên hốc mắt, các động mạch cảnh, thái dương và
động mạch chăm.
– Đánh giá cảm giác đau khi miệng mởvà đóng, các khớp cắn lệch và sự nhậy cảm đau của khớp thái dương – hàm. Gõ trên xoang trán và xoang hàm tìm nhậy cảm đau.
– Trong nhức đầu vùng chăm nên đánh giá đất sống cổ, đánh giá động tác ngửa gấp và quay. Bệnh đất sống cổcó thểdẫn đến nhức đầu gây ra do co cơhoặc bệnh dễthần kinh chăm. Cần đặc biệt chú ý tới các dây thần kinh sọnão, thần
kinh thịgiác.
– Đánh giá vềtâm lý: sửdụng các test chuẩn vềtâm lý.
– Khám các chuyên khoa: khám mắt, khám thịlực, thịtrường.
– Khám răng hàm mặt: phát hiện răng sâu, răng mọc lệch.
– Khám tai mũi họng: phát hiện viêm tai giữa, viêm tai xương chũm, viêm xoang, viêm họng và amydal…
2.3. Các xét nghiệm
– Các nghiên cứu ởphòng thí nghiệm cần được chỉdẫn bằng các kết quả về tiền sửbệnh và thăm khám thực thể.
– Xét nghiệm dịch não tuỷ, đếm sốlượng hồng cầu – bạch cầu, cấy máu và dịch não tuỷ.
– Tốc độmáu lắng: tăng trong nhức đầu do viêm động mạch thái dương.
– Điện giát đô.
– Đường huyết lúc đói đểchẩn đoán đái tháo đường hoặc hạ đường huyết.
– Chụp cắt lớp vi tính trong những trường hợp nghi u não, chấn thương sọnão.
– Cộng hưởng từhạt nhân.
– Đo nhãn áp đểchẩn đoán glaucome.
3. NGUYÊN NHÂN NHỨC ĐẦU
3.1. Nguyên nhân mạch máu
* Nhức đầu vận mạch: là thểthông thường nhất, do một rối loạn vận mạch trong não, thường gặp trong các bệnh nhiễm trùng, sốt, các trạng thái thiếu oxy não, đói, nhiễm độc rượu và thuốc lá mạn tính.
* Đau nửa đầu (Migren thông thường):
– Đặc điểm cơbản của Migren là đau nửa đầu từng cơn, tái diễn có chu kỳ, kèm theo buồn nôn, nôn. Trước khi đau thường có tiền triệu. Ngoài cơn hoàn toàn bình thường nữbịbệnh nhiều hơn nam. Gặp nhiều ởlứa tuổi 15 – 30.
– Yếu tốkhởi phát cơn thường là yếu tốtâm lý, lo lắng, xúc cảm. Migren tăng lên trong thời kỳkinh nguyệt, tiền mạn kinh và dùng thuốc tránh thụthai. Yếu tốmôi trường, ánh sáng, tiếng động, bệnh tăng huyết áp, một sốthuốc cũng làm
tăng tình trạng nặng của bệnh.
– Vịtrí đau thường ởmột bên đầu, tuỳtừng cơn, đau đầu có thểluân phiên bên phải, bên trái.
– Tính chất đau: cảm giác nặng đầu rất khó chịu, nẩy theo mạch đập đồng thời với nhịp tim.
– Cường độ đau: đau vừa đến dữ đội. Trên cùng một bệnh nhân cường độ đau ở mỗi cơn có thểkhác nhau. Đau tăng khi lên cầu thang, khi vận động, hoặc bởi ánh sáng, tiếng động, mùi thuốc (thuốc lá, thuốc chữa bệnh). Do đó, bệnh nhân
phải tìm chỗyên tĩnh, buồng tối, không muốn tiếp xúc với mọi người.
– Hướng lan: xuất phát từvùng trán – thái dương, đau có thếlan lên đỉnh đầu, ra vùng chăm, xuống hàm dưới hoặc ra hốc mắt cùng bên. 84% đau chỉlan ra nửa đầu.
– Thời gian của cơn: xảy ra thành từng cơn lâu 4 – 24 giờ, giai đoạn đau nhất từ 30 phút đến 2 giờ.
– Đau đầu giảm sau khi nôn hoặc giảm dần trong ngày, thường ngủ được mới hết cơn, giấc ngủcàng sâu càng nhanh hết.
– Khám trong cơn thấy động mạch thái đương căng, nổi ngoằn ngoèo, nẩy, đập mạnh ởbên đau.
* Tăng huyết áp:
– Ngoài nhức đầu, bệnh tăng huyết áp còn có những triệu chứng khác như: chóng mặt, đánh trống ngực, chảy máu cam, ù tai, mất ngủ, đi đái đêm…
– Tính chất nhức đầu trong tăng huyết áp thường gặp trong tăng huyết áp nặng, hay nhức ởvùng chăm, xảy ra buổi sáng và giảm dần trong ngày.
* Giãn mạch nửa đầu: đau một bên và nhậy cảm với histamin.
* Viêm động mạch thái dương (bệnh Horton):
– Là một bệnh viêm hệthống động mạch, chủyếu là động mạch thái dương. Nữ bịnhiều hơn nam, hầu hết là trên 60 tuổi, có yếu tốdi truyền. Thường đau một bên thái dương, đau thường xuyên, tăng lên khi kích thích nhẹ(chải đầu, đeo
kính…).
– Trong cơn kịch phát: nhức đầu dữ đội.
– Có thể đau buốt theo mạch đập.
– Đau nhức ởvùng thái dương lan ra vùng trán và hốc mắt cùng bên.
– Khi khám phát hiện thấy một đoạn thừng động mạch thái dương cứng màu đỏ tím, ấn đau. Sờthấy động mạch có chỗto nhỏkhông đều, mạch đập yếu hoặc không đập.
– Có thểphát hiện tổn thương khu trú ởmột số động mạch khác.
– Toàn thân bệnh nhân có sất, mệt mỏi, chán ăn, gầy sút.
– Có thểcó biểu hiện mù mắt đột ngột, do nghẽn hoàn toàn động mạch mắt, một số trường hợp biểu hiện thiếu máu não, viêm động mạch ngoài sọvà viêm động mạch các chi.
3.2. Nguyên nhân nội sọ
* Tăng áp lực nội sọ: thường nhức đầu vào buổi sáng, lúc gắng sức, đôi khi thường xuyên.
* U não:
– Lúc đầu, nhức đầu xuất hiện thành những cơn ngẩn, rồi sau kéo dài và trở thành thường xuyên, đôi khi không chịu nối.
– Đau có thểxuất hiện tăng lên và mất đi theo sựthay đổi tưthếcủa đầu: khi đó bệnh nhân có tưthếbắt buộc, nằm nghiêng sang bên hoặc nằm ngửa, đầu cúi ra trước, ra sau. Nguyên nhân gây nên các tưthếbắt buộc của đầu là do:
+ Kích thích các dễthần kinh cảm giác.
+ Kích thích tai trong.
+ Những thay đổi của tuần hoàn dịch não tuỷ.
– Nhức đầu xuất hiện hoặc đau tăng lên khi:
+ Đè ép động mạch cảnh hoặc truyền các trung dịch ưu trương.
+ Đau khu trú dội lên khi gõ vào đầu.
– Vịtrí nhức đầu xuất hiện đầu tiên có liên quan đến vịtrí khối u, 1/3 sốbệnh nhân u não có vịtrí nhức đầu trùng với vịtrí khối u. Nhức đầu chỉcó vịtrí định khu khi không có tăng áp lực nội sọ.
* Áp xe não: kèm theo sốt, tăng áp lực nội sọ.
* Viêm màng não và chảy máu dưới màng nhện: bình thường màng nuôi và màng nhện không nhậy cảm đau. Nhưng trong viêm màng não và chảy máu dưới màng nhện thì bệnh nhân lại nhức đầu dữdội là do:
– Những cấu trúc (bình thường đã có sẵn tính nhậy cảm với đau) chạy qua hoặc áp sát vào màng nuôi bịkích thích như: những động mạch lớn của nền sọvà các nhánh của nó, những xoang tĩnh mạch lớn.
– Các dây thần kinh sọnão bịkích thích:
+ Các dây thần kinh giác quan bịkích thích sẽphát sinh sợánh sáng, sợnói to.
+ Các dây thần kinh cảm giác bịkích thích sẽgây tăng cảm giác đau.
+ Các dây thần kinh vận động bịkích thích gây nên co cứng màng não, co cứng đau ởgáy, co cứng hàm.
– Đôi khi đám rối màng mạch bịkích thích gây tăng áp lực dịch não tuỷ.
3.3. Các nguyên nhân ở sọ
– Thường gặp trong bệnh Kahler, các u xương di căn vào hộp sọ, phát hiện bằng chụp Xquang sọ.
– Tổn thương các dây thần kinh cảm giác: đau đọc theo các đây thần kinh bịtổn thương, ấn vào đau có thểlà zôna.
3.4. Các nguyên nhân ngoài sọ
– Nhức đầu do bệnh mắt:
+ Các tật chiết quang, viêm mống mắt thểmi, nhức đầu nhiều khi ởtrán, tăng lên khi gắng nhìn.
+ Glaucome: đau đầu dữdội, nhức trong hốmắt, nhìn vào đèn thấy có quầng xanh đỏnhưcầu vồng, ấn nhãn cầu thấy căng cứng, tăng nhãn áp.
+ Ngoài ra còn gặp nhức đầu sau khi làm việc bằng mắt, đọc sách, xem vô tuyến.
– Nhức đầu do bệnh tai mũi họng:
+ Viêm tai giữa, viêm xương chũm, nhức đầu thường ởthái dương, ởmột bên và cách hồi, nắn vào xương chũm gây đau.
+ Vẹo vách ngăn mũi, phì đại xương cuốn mũi.
+ Viêm xoang trán, xoang mũi hoặc xoang sàng: nhức đầu chủyếu vào buổi sáng và tăng lên khi lạnh.
– Nhức đầu do bệnh răng:
Các bệnh sâu răng, áp xe chân răng, răng khôn mọc lệch thường đau tại chỗ, nhưng có thể đau lên thái dương, đỉnh đầu, khi cắn vật cứng đau tăng lên.
3.5. Nguyên nhân khác
* Nhiễm độc: rượu, nhiễm độc chì, asen, hút nhiều thuốc lá: thường nhức toàn
bộ đầu.
* Nhức đầu sau chấn thương:
– Đau đầu xuất hiện vài ngày sau chấn động não hay đụng giập não, thường khu trú ởchỗbịthương, tăng lên do các trạng thái xúc cảm và thay đổi tưthế.
– Một thời gian sau chấn động não hoặc đụng giập não, đau đầu xuất hiện ngày một tăng, đồng thời lại xuất hiện những triệu chứng thần kinh thực thểthì phải nghĩtới khảnăng có bọc máu tụdưới màng cứng mạn tính.
* Nhức đâu sau chọc tu.ý sông:
– Xảy ra vài giờsau chọc dò tuỷsống và kéo dài 1 – 2 ngày. Đau có tính chất căng kẻo, đôi khi nhưmạch đập, đau tăng ởtưthếngũhoặc đứng, hoặc sau các cử động mạnh của đầu, ho, gắng sức.
– Chọc ống thắt lưng bằng kim cỡlớn, gây nhức đầu nhiều và kéo dài hơn dùng kim nhỏ.
– Áp lực dịch não tuỷgiảm đã làm thay đổi cân bằng thuỷtĩnh của não và tác động đè ép tới các cấu trúc nhậy cảm đau.
– Sựcăng thẳng nội tâm và lo lắng sợhãi sau chọc dò tuỷsống là yếu tốthuận lợi
gây nhức đầu.
* Sốt: sốt cao gây giãn mạch gây nên nhức đầu. Đau nhiều ởvùng trán, chăm
hoặc toàn bộ đầu.
* Thiếu máu: xuất hiện trong trường hợp thiếu máu nặng, hoặc ởnhững người bình thường ở độcao.
Nhức đầu do thay đổi áp lực ởtai, xoang mặt. Làm động tác nhai, nuốt hay nghiệm pháp Valsalva thì sựchênh lệch áp lực sẽ được thăng bằng nhanh chóng.
* Viêm xơcác cơ ởcổ. xác định điểm đau ởchỗbám các cơcổ.
4. ĐIỀU TRỊ
Bước quan trọng nhất trong điều trị đau đầu là các biện pháp phát hiện và loại bỏcác bệnh chính hoặc các rối loạn chức năng.
– Đối với đau đầu hàng ngày thông thường do mệt mỏi, sang chấn tâm lý hoặc dùng quá nhiều rượu, thuốc lá, tăng stress, Aspirm 0,6g hay Acetamiophen 0,6 g, 6 – 8 giờ1 lần.
– Đau nửa đầu (Migren):
+ Cho tới nay chưa có phương pháp điều trịtriệt để, cần phải phối hợp phương pháp điều trịnhằm làm giảm tần sốcơn, cường độcơn, thời gian của mỗi cơn và triệu chứng kèm theo.
+ Tránh yếu tốgây đau, tránh các đồuống có rượu, nhất là rượu vang đỏ
+ Điều trịcơn đau đầu: dùng thuốc nào là tuỳthuộc vào mức độnặng, nhẹcủa bệnh, vào kinh nghiệm của thầy thuốc cũng như đáp ứng của mỗi người bệnh.
+ Thểnhẹchỉcần Analgin (500mg – uống sau bữa ăn).
+ Cơn đau nặng hơn cán dùng một trong sô các thuộc như:yErgotamin leng, uống hoặc đặt dưới lưỡi, ngay từbắt đầu cơn, sau 30 phút (nếu không đỡ) thì uống thêm 1 viên, không dùngquá 3 viên/ ngày. Không dùng quá 10 viêm tuần. Không dùng giữa các cơn đau. Chếphẩm này thận trọng khi dùng cho phụnữcó thai hoặc những người bịbệnh mạch máu.yParacetamol, Tamik.yThuốc chống viêm không steroid: Voltaren, Indomethacin.yCác thuốc an thần: Seduxen, gacdenan nhưng cũng không nên lạm dụng.
+ Điều trịdựphòng các cơn đau, chỉáp dụng với thểnặng: Avlocardyl, tamik, laroxyl hoặc Sibelium.
+ Cần phải điều trịcác yếu tốlàm tăng bệnh nhưrối loạn nội tiết, tiêu hóa, gan mật và liệu pháp tâm lý, tránh các đồuống có rượu.
– Đau đầu do tăng huyết áp:
+ Nhức đầu thuyên giảm đồng thời với con sốhuyết áp hạ.
+ Tác dụng điều trịcó hiệu quảtốt nhất là dùng thuốc hạhuyết áp kết hợp với
thuốc an thần.
+ Trong quá trình điều trịcần theo dõi huyết áp và mức độnhức đầu
– Đau đầu do căng cơ: xoa bóp, thưgiãn, kết hợp với các thuốc trầm cảm Amitriptylin, an thần Seduxen, các thuốc giảm đau Analgin, kết hợp tâm lý liệu pháp.
– Đau đầu sau chấn thương: tâm lý liệu pháp, chườm nóng, xoa bóp, các thuốc Indomethacin hoặc Phenylbutazon.
– Viêm động mạch: Prednisolon 40 – 60 mg/ngày, dùng ít nhất 1 tháng sau đó
giảm dần liều cho đến khi triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm vềbình thường. Có thểkết hợp với thuốc chống viêm không Steroid trong giai đoạn củng cố.
– Do u não: tốt nhất là chuyển tuyến trên để điều trịphẫu thuật cắt bỏhoàn toàn khối u.
– Nhức đầu do sốt: điều trịtheo căn nguyên và dùng biện pháp hạnhiệt bằng chườm lạnh, hoặc dùng các thuốc hạsất nhưParacetamol, Analgin kết hợp với thuốc an thần.
Trong khi điều trị đau đầu cần phải hết sức chú ý, tránh lạm dụng các thuốc giảm đau nhưAnalgin, Aspirin, Indomethacin, Seda… nhất là ởnhững bệnh nhân có tiền sửloét dạdày hành tá tràng, vì có thểgây biến chứng chảy máu đường tiêu hóa rất nguy hiểm. Nếu chỉ định dùng thuốc giảm đau không Steroid phải khuyên bệnh
nhân uống sau bữa ăn, sau đó phải cốgắng tìm nguyên nhân để điều trị.
5. PHÒNG BỆNH
– Tầm quan trọng của công tác vệsinh chung, một chế độ ăn đầy đủ, nghỉngơi phù hợp, lao động hợp lý, xác định và loại bỏnhững yếu tốlo âu hàng ngày là giúp cho việc phòng nhức đầu có hiệu quả.
– Thay đổi tập quán sinh hoạt, tránh các tác nhân gây cơn, tâm lý liệu pháp, tập luyện dưỡng sinh, các biện pháp này cần được coi trọng trong phòng ngừa nhức đầu Migren.
– Cần chuyển tuyến trên kịp thời đểchẩn đoán và điều trị đối với những trường hợp điều trịbằng những biện pháp thông thường không thấy kết quả, khó xác định nguyên nhân.
” Thông tin này chỉ dành cho nhân viên y tế tham khảo, người bệnh không được tự ý áp dụng phương pháp này để chữa bệnh “
Trích: Bệnh học nội khoa, giáo trình Đại học y khoa Thái Nguyên