Theo y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian, mật gấu với tên thuốc là hùng đởm có vị đắng, ngọt mát, tính hàn, mùi thơm dịu, có tác dụng đặc hiệu giảm các chứng đau, tiêu viêm tán ứ, diệt trừ vi khuẩn. Thành phần hóa học của mật gấu gồm sắc tố mật bilirubin, cholesterol, muối mật, acid cholic, đặc biệt là chất acid ursodesoxycholic (chỉ có trong mật gấu) ở dạng liên kết tạo thành muối mật tanro-ursodesoxycholat làm cho chất mật sáng bóng óng ánh. Muối mật này là tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng của mật gấu và phân biệt thật, giả. Dược liệu được dùng trong những trường hợp sau:
– Chữa viêm tấy, đau nhức, tụ máu bầm tím do ngã hay chấn thương, hoàng đản: Lấy 0,5g mật gấu khô hòa vào nước ấm mà uống, ngày 3-4 lần. Hoặc 0,5-1g hòa vào 10ml rượu 45o để xoa bóp. Có thể phối hợp mật gấu với mật trăn, huyết lình, nghệ trắng, rễ ô đầu, nhân hạt gấc, ngâm rượu dùng xoa bóp chữa bong gân, sai khớp. Đặc biệt, chất acid ursodesoxycholic trong mật gấu làm giảm sưng đau nhanh và mạnh hơn.\
– Chữa mắt đau sưng đỏ, có màng mộng: Lấy 1-2g mật gấu khô mài với nước đun sôi để nguội, lọc, dùng nhỏ mắt hằng ngày. Dung dịch nước cất chữa 2-3% mật gấu dùng nhỏ mắt còn làm tan máu nhanh trong vòng 2-3 ngày đối với trường hợp xuất huyết dưới kết mạc do chấn thương hoặc do biến chứng của bệnh sởi, cúm, ho gà. Chú ý: Các dạng bào chế mật gấu dùng nhỏ mắt đều phải được tiệt khuẩn và chỉ dùng từ 5-7 ngày đối với dạng pha chế đơn giản.
Ngoài ra, mật gấu còn chữa viêm loét dạ dày, mật và tụy hoạt động kém, sỏi mật, viêm khớp, viêm xoang, đái tháo đường, bệnh phụ khoa. Gần đây, mật gấu đã được ứng dụng điều trị bệnh xơ gan. Một số trường hợp ung thư cũng đã được điều trị bằng uống mật gấu kết hợp với các phương pháp trị liệu khác như hóa trị liệu, chiếu xạ, phẫu thuật.